Quỹ thành viên không chỉ là một phương án đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp và tài chính mạnh mẽ, mà còn là một công cụ giúp họ tối ưu hóa lợi nhuận đầu tư.

Quỹ thành viên là gì?

Theo quy định của Luật chứng khoán, quỹ thành viên được định nghĩa là quỹ đầu tư chứng khoán có số thành viên tham gia góp vốn từ 02 – 99 thành viên và những thành viên này là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Đây là loại quỹ được phát hành riêng lẻ dành riêng cho một nhóm các nhà đầu tư được lựa chọn trước

Danh mục đầu tư của Quỹ thành viên bao gồm các loại tài sản như sau

·   Tiền gửi các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật ngân hàng;

·   Công cụ thị trường tiền tệ bao gồm giấy tờ có giá, công cụ chuyển nhượng theo quy định của pháp luật;

·   Công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương;

·   Cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu đăng ký giao dịch, trái phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, chứng chỉ quỹ đại chúng;

·   Trái phiếu chưa niêm yết của các tổ chức phát hành hoạt động theo pháp luật Việt Nam; cổ phiếu của công ty cổ phần, phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn;

·   Quyền phát sinh gắn liền với chứng khoán mà quỹ đang nắm giữ;

·   Các chứng khoán và tài sản khác theo quy định của pháp luật….

Việc phân phối lợi nhuận của Quỹ thành viên

Lợi nhuận của quỹ sẽ có thể được phân bổ bằng chứng chỉ quỹ hoặc bằng tiền

Lợi ích và một số lưu ý khi tham gia Quỹ thành viên

Quỹ đầu tư được quản lý bởi công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp và được giám sát bởi Ngân hàng lưu ký, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nên hoạt động đầu tư và quản lý được bảo đảm tính an toàn cao. Nhà đầu tư khi tham gia có thể có quyền kiểm soát quỹ, tuy nhiên, tính thanh khoản của quỹ đầu tư cá nhân thường thấp hơn so với quỹ đại chúng.

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều quỹ đầu tư với mục đích đầu tư, tiêu chí đầu tư và mức độ rủi ro khác nhau, do đó các nhà đầu tư cần phải tự xác định cho mình những tiêu chí để lựa chọn quỹ đầu tư phù hợp nhất. Thông thường, các tiêu chí sẽ bao gồm hiệu quả hoạt động của quỹ, uy tín và chuyên môn của nhà quản lý quỹ, tính minh bạch thông tin và sự đa dạng và phù hợp của danh mục đối với yêu cầu nhà đầu tư.